Sự hình thành
Người ta còn gọi Opan là Ngọc mắt mèo. Đây là loại đá không quá cứng, rất mỏng, có xuất xứ từ Úc, chúng được mệnh danh là nữ hoàng của các loại đá….
Opan nhiều khi đọng trong các suối nhiệt dịch và suối phun ở các khu vực núi lửa (tup silit, greyserit…), đôi khi thành những thạch nhũ trắng, trong suốt, có quang thái ngọc. Opan cũng thường liên quan tới các loại đá macma phun trào như ryolit, andezit và trachit trong đó opan thường được lắng đọng trong các lỗ hổng ở nhiệt độ thấp.
Ứng dụng
Opan là khoáng vật có màu tự sắc, bình thường chúng không màu nhưng do lẫn các tạp chất mang màu, nhất là Fe và một số tạp chất mang màu khác nên chúng có các màu khác nhau vàng, nâu, đỏ, lục và đen. Opan quý thường có màu sặc sỡ như cầu vồng.
Người ta phân loại opan ra làm 2 loại dựa vào đặc điểm của chúng là opan quý và opan thường.
Opan quý có đặc điểm gọi là hiệu ứng lưỡng sắc opan (opalescence) tức là khi ta quan sát viên đá ở các hướng khác nhau sẽ thấy hiện tượng như cầu vồng xuất hiện trên bề mặt viên đá.
Opan thường là loại opal khá phổ biến và không có các hiệu ứng màu như ở opan quý, không màu hoặc trong, màu mật ong, màu trắng ánh ngọc, đục, xanh táo…
Opan được biết đến từ rất lâu và ngày xưa chúng chủ yếu được sử dụng làm vật liệu trang trí trong các đền đài và cung điện, bên cạnh đó một khối lượng lớn được sử dụng làm đồ trang sức.
Theo quan niệm của người phương Tây, Opal hợp với tuổi Tỵ hoặc người sinh vào tháng 10, là biểu tượng của chòm sao Song ngư trong cung hoàng đạo, năng lượng chiếu xạ của Dương tuỳ thuộc vào màu sắc của đá.